Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

Chiến lược chống Trung Quốc của Washington (1)


Dầu mỏ thống trị thế giới.




Barack Obama và Julia Gillard đồng tâm hiệp lực kiềm chế Trung Quốc (Reuters)

Không thể xem xét các quá trình đang diễn ra hôm nay ở Trung và Cận Đông, cũng như Đông Phi bên ngoài bối cảnh sự ganh đua Mỹ-Trung.

Cũng không thể bỏ qua thực tế là chính sách đối ngoại Mỹ là nhằm làm suy yếu Trung Quốc - đối thủ chính của Mỹ trong cuộc đấu giành quyền chi phối thế giới.

Ta đều biết là Trung Quốc không sở hữu trữ lượng lớn tài nguyên năng lượng trên lãnh thổ của mình nên rất phụ thuộc vào nguồn cung dầu mỏ từ bên ngoài. Vịnh Persique đã trở thành thị trường dầu mỏ tiện lợi nhất cho Trung Quốc; ban lãnh đạo Trung Quốc hiển nhiên là hy vọng nó vẫn như thế trong 20-30 năm tới. Ngoài ra, lục địa châu Phi, nhất là các quốc gia vịnh Guinea và Sudan cũng ngày càng quan trọng trong việc bảo đảm an ninh năng lượng của Trung Quốc.

Các tàu chở dầu mỏ Cận Đông và châu Phi đến Trung Quốc qua Ấn Độ Dương, nơi thực hiện đến 50% khối lượng vận chuyển container trên thế giới và 70% khối lượng vận chuyển sản phẩm dầu mỏ. Đồng thời, nằm ở Ấn Độ Dương là đa số trong 11 khu vực hiểm yếu nhất có nguy cơ làm tắc nghẽn việc cung cấp hydrocarbon trên thế giới: các eo biển Hormuz, Bab al Mandeb và Malacca, eo biển Lombok (Indonesia) nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, kênh đào Suez, tuyến đường vòng xa quanh mũi Hảo Vọng. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi Ấn Độ Dương đang trở thành một trong những khu vực rủi ro quan trọng nhất, nơi đụng độ lợi ích của các cường quốc khác nhau.




Việc vận chuyển dầu mỏ và hàng hóa bằng đường biển tương đối rẻ cũng như vai trò gia tăng của giao thông đường biển trong nền kinh tế thế giới trong điều kiện toàn cầu hóa đã làm gia tăng vai trò của Ấn Độ Dương như một khu vực có tầm quan trọng chiến lược.




Với sự thay đổi tương quan sức mạnh trên thế giới trong thập kỷ 1990, Trung Quốc bắt đầu hoạch định chiến lược (đúng hơn là khái niệm) dài hạn và cực kỳ tham vọng được gọi là “Liên châu” đối với khu vực này. Thuật ngữ “Liên châu” (String of pearls - chuỗi ngọc trai) là do các chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu chiến lược Mỹ (US Strategic Studies Institute) nghĩ ra. Năm 2006, họ công bố báo cáo “Liên châu: giải pháp cho vấn đề sức mạnh gia tăng của Trung Quốc trên bờ biển châu Á”. Trong báo cáo này, các tham vọng của Trung Quốc bảo vệ tuyến đường mà họ xây dựng bị xem là thách thức trực tiếp đối với sự bá quyền của Mỹ trong khu vực.


Yếu tố năng lượng đã đóng vai trò then chốt trong việc Trung Quốc xây dựng chiến lược “Liên châu”. Hơn 85% dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ được vận chuyển tới Trung Quốc từ vịnh Persique và châu Phi qua Ấn Độ Dương đi qua eo biển hẹp Malacca thường xuyên bị hải tặc tấn công. Nhận thấy sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn cung dầu mỏ từ bên ngoài, Bắc Kinh đang cố bảo vệ mình trước bất kỳ mưu toan nào cắt đứt các tuyến đường cung cấp năng lượng. Bản chất của chiến lược “Liên châu” là thiết lập các điểm tựa của Trung Quốc dưới dạng các căn cứ hải quâ và không quân hay các hải cảng “thân hữu” trải dài từ đảo Hải Nam của Trung Quốc đến cảng Gwadar của Pakistan và dùng để bảo đảm an toàn cho việc cung cấp dầu mỏ đến Trung Quốc.

Chiến lược của Obama

Tháng 11/2011-tháng 1/2012, Barack Obama đã công bố hàng loạt nội dung thú vị trong chính sách Đông Á của mình. Tháng 11/2011, Tổng thống Mỹ thực hiện chuyến thăm các nước khu vực châu Á-Thái Bình Dương và tham gia hội nghị của ASEAN và Thượng đỉnh Đông Á EAS. Chủ đề quan trọng của các cuộc đàm phán là thảo luận tình hình xung quanh các quần đảo tranh chấp ở Biển Đông. Như ta đã biết, hiện có nhiều nước như Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Đài Loan đều tuyên bố chủ quyền đối với thềm lục địa của quần đảo Trường Sa giàu khoáng sản.

Ngay trước Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á ở Indonesia, Barack Obama đã ký với Thủ tướng Australia Julia Gillard hiệp định triển khai quân đội Mỹ tại căn cứ quân sự Darwin. Vào năm 2012, tại căn cứ nằm ở Các lãnh thổ phía bắc (một đơn vị hành chính của Australia), sẽ triển khai 200-250 lính thủy đánh bộ, cũng như các tàu của hài quân Mỹ và máy bay. Còn đến năm 2016, căn cứ Darwin sẽ tiếp nhận 2.500 lĩnh Mỹ và “một số lượng nào đó các binh đoàn hải quân và không quân”, mà con số cụ thể thì công chúng hiện chưa biết gì cả. Hoàn toàn có thể là một phần trong đội quân Mỹ 100.000 người ở châu Phi trong tương lai sẽ được chuyển tới căn cứ Darwin.


Phát biểu tại nghị viện Australia, Barack Obama tuyên bố: “Với tư cách tổng thống, tôi đã đưa ra một quyết định chiến lược được suy tính kỹ. Mỹ là một quốc gia Thái Bình Dương nên chúng tôi sẽ đóng vai trò quan trọng hơn và lâu dài trong việc định hình khu vực này. Chúng tôi sẽ duy trì khả năng tung sức mạnh quân sự độc nhất vô nhị và răn đe các mối đe dọa vì hòa bình của chúng tôi. Mỹ là một thế lực Thái Bình Dương, và chúng tôi đã đến châu Á để ở lại đây”, và nói thêm rằng, “Mỹ không sợ Trung Quốc, quốc gia lớn mạnh nhất trong khu vực”.

Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ là Ben Rhodes giải thích các phát biểu của Barack Obama: “Hiệp định quân sự về việc triển khai đạo quân Mỹ ở Australia – đó là tín hiệu cho thấy, chúng tôi dự định tiếp tục đóng vai trò then chốt trong bảo đảm an ninh ở phần này của khu vực, nơi sức mạnh quân sự Trung Quốc đang gia tăng”. Có lẽ việc Lầu Năm góc thành lập cơ quan quân sự mới là Air See Battle Command (Bộ chỉ huy Tác chiến không-hải) mà một trong các nhiệm vụ được công bố chính thức là chuẩn bị toàn diện cho Hải quân, Không quân và Thủy quân lục chiến Mỹ cho nhiệm vụ vô hiệu hóa một quốc gia X. Do trong danh sách các mối đe dọa tiềm tàng Air See Battle Command có nêu ra các chiến hạm, tàu ngầm, máy bay, tên lửa chống hạm và vệ tinh do thám Trung Quốc, nên chẳng khó khăn gì để đoán ra quốc gia X mà các nhà hoạch định chương trình cho Air See Battle Command định đánh nhau là Trung Quốc.

Những câu hỏi về lý do lập căn cứ quân sự mới của Mỹ ở Australia vẫn nhiều hơn những câu trả lời. Trước hết là những mục tiêu thực sự của việc chính phủ Mỹ quân sự hóa khu vực này lần đầu tiên sau chiến tranh Việt Nam là gì và một căn cứ quân sự mới trên lãnh thổ một trong những quốc gia hòa bình nhất khu vực để làm gì? Viên tướng không quân Mỹ phụ trác hoạch định chiến lược của các lực lượng quân ự Mỹ ở Thái Bình Dương Michael Keltz tình cờ hé lộ rằng, các tiêm kích F-22, máy bay vận tải C-17, cũng như máy bay ném bom chiến lược sẽ được triển khai ở Australia.

Vì thế, nghe ra rất nước đôi là những lời nói của Tổng thống Mỹ đương nhiệm rằng, “chúng tôi đã kết thúc tất cả các cuộc chiến, và vì thế tôi giao phó cho đội chuyên gia an ninh quốc gia của mình nhiệm vụ bảo đảm sự hiện diện ở châu Á-Thái Bình Dương với tư cách nhiệm vụ ưu tiên”.


Ngoại trường Mỹ Hillary Clinton trên tạp chí Foreign Policy đã viết rằng, hiện tại, một nước Mỹ suy yếu về kinh tế không thể cho phép mình là cường quốc chi phối đồng thời ở mấy khu vực trên thế giới. Bởi vậy, có thể dự đoán rằng, các nỗ lực đối ngoại của Mỹ sẽ chủ yếu nhằm vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, chưa rõ những nước nào ở châu Á-Thái Bình Dương giao cho Mỹ sứ mệnh “đóng vai trò đáng kể và lâu dài trong việc định hình tương lai” của khu vực này.

Chính sách mà Mỹ toan tính thực thi ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ khiến lãnh đạo Trung Quốc cực kỳ lo ngại bởi vì một căn cứ quân sự ở Australia sẽ khóa kín vành đai các căn cứ quân sự Mỹ bao quanh Trung Quốc và tạo ra cho Washington khả năng kiểm soát các tuyến đường giao thương đường biển trọng yếu nhất mà qua đó một lượng hàng hóa có tổng trị giá 5.000 tỷ USD được vận chuyển hàng năm.


Người Mỹ đang sẵn sàng bổ sung thêm thành tố kinh tế cho khía cạnh quân sự trong chính sách Đông Á của họ. Theo Аssociated Press, trong Hội nghị Thượng đỉnh APEC diễn ra ở Hawaii vào năm 2011, Obama đã tuyên bố rằng, Mỹ đang xem xét ý tưởng lập tổ chức thương mại khu vực mới không có sự tham gia của Trung Quốc. Như vậy, giới tinh hoa chính trị Mỹ chắc chắn dự định đối phó một cách tổng hợp với Trung Quốc. Bao vây xung quanh Trung Quốc bằng “các liên minh quốc phòng” với các quốc gia khác ở khu vực (ngoài Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines, còn có các liên minh với Việt Nam, Myanmar và Singapore), Washington trong khuôn khổ “học thuyết kiềm chế” của họ còn muốn dựng lên các rào cản kinh tế đối với Bắc Kinh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Theo tác giả của cuốn sách “Máu và dầu mỏ” của Giáo sư Trường Hampshire College Michael Klare, ý nghĩa của chiến lược mới của Obama là rất rõ ràng: “Từ nay, nội dung chính của chiến lược quân sự Mỹ sẽ không phải là đối phó với chủ nghĩa khủng bố mà kiềm chế một quốc gia đang phát triển bùng nổ về kinh tế bất kể rủi ro và cái giá của vấn đề”. Ở ý nghĩa này, căn cứ quân sự Mỹ ở Australia có thể xem như một trong những bộ phận của vành đai cách ly mà Mỹ muốn dùng để khóa chặt Trung Quốc, ngăn Trung Quốc tiếp cận đại dương thế giới và kiể soát các tuyến đường biển cung cấp dầu mỏ và khí nén cho Trung Quốc.

Sự đối kháng vũ trang, trong bối cảnh đó, không phải là mục tiêu cuối cùng và bất biến. Bằng cách mở rộng tiềm lực quân sự của mình trong khu vực, Mỹ sẽ kích động Trung Quốc có những hành động đáp trả đối xứng và gia tăng hơn nữa chi phí cho quân bị. Như vậy, mục đích chính của “chính sách kiềm chế” này là gây áp lực và bằng cách đó làm suy yếu Trung Quốc về mặt kinh tế bằng cách buộc Trung Quốc chi những khoản tiền khổng lồ cho quốc phòng, chứ không phải cho bành trường sản xuất-thương mại.

Những rủi ro trên các tuyến đường biển

Việc tiếp cận các nguồn năng lượng, hệ thống tuần hoàn của nền kinh tế thế giới, đang mỗi năm một khó khăn hơn đối với các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Hiện nay, người ta đã hiểu rằng, dầu mỏ và khí đốt giá rẻ trong tương lai gần chắc chắn sẽ không có. Trong khi đó, Mỹ trong các thập niên gần đây tiêu thụ đến 40% toàn bộ tài nguyên thiên nhiên của trái đất, trong khi các nhu cầu của các nước như Trung Quốc và Ấn Độ thì liên tục tăng.

Đã xuất hiện một xu hướng rõ ràng là các nước đang phát triển, nơi tập trung các trữ lượng chủ yếu tài nguyên năng lượng của thế giới đang tiến hành quốc hữu hóa các nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình để có được nguồn thu cao hơn cho ngân sách quốc gia.

Trong giới phân tích phương Tây xác lập quan điểm cho rằng, nếu như một cuộc xung đột vũ trang sẽ xảy ra lúc nào đó giữa Mỹ và Trung Quốc thì chỉ là vì chuyện chia chác các nguồn tài nguyên năng lượng đang tan biến từng ngày.

Rõ ràng là trong những năm tới, chuyện đó khó lòng xảy ra, tuy nhiên cuộc đấu tranh ngầm để giành giật các mỏ dầu khí sẽ diễn ra không ngừng. Theo dự báo, vào năm 2020, Trung Quốc sẽ tiêu thụ tới 13,6 triệu thùng dầu/ngày và đến 16,9 triệu thùng dầu/ngày vào năm 2035, khi nhu cầu dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc sẽ là 11,6 triệu thùng. Vì thế, sự cạnh tranh giành dầu mỏ giữa các nước tiêu thụ chủ yếu trong tương lai sẽ gia tăng nhiều lần.

Nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc từ Cận Đông, châu Phi và Mỹ Latinh sẽ tăng mạnh, còn các rủi ro chủ yếu sẽ tiềm ẩn trên các tuyến đường biển dài lê thê. Như Michael Klare viết trên tạp chí European Energy Review, “Bằng cách tạo lập cho mình ưu thế hải quân ở Biển Đông và các vùng biển lân cận, chính quyền Obama rõ ràng nhắm tới việc giành lấy công cụ năng lượng trong thế kỷ XXI có giá trị tương đương cái gọi là hăm dọa hạt nhân trong thế kỷ XX. Chỉ cần các vị đụng chạm đến lợi ích của chúng tôi là chúng tôi sẽ buộc nền kinh tế của các vị phải quỳ gối bằng cách chặn đứng dòng chảy của nhiên liệu có tầm quan trọng sống còn”, chuyên gia Mỹ này đánh giá ý nghĩa của chính sách mới của Obama như vậy.

Đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển dầu mỏ tới Trung Quốc là Yemern, vốn là một khu vực chiến lược trọng yếu tiếp giáp với vịnh Persiquae và bán đảo Arab. Các quan chức Trung Quốc gần đây có nói về sự cần thiết thiết lập các căn cứ hải quân tại khu vực quan trọng này đối với họ. Tuy nhiên, việc gây mất ổn định ở Yemen và sự dính líu của Mỹ vào cuộc xung đột Yemen đã ngăn chặn các ý đồ của Trung Quốc. Quốc gia duy nhất trong khu vực mà ở đó Trung Quốc có thể xây dựng căn cứ hải quân là Iran bởi lẽ ở tất cả các quốc gia đáng quan tâm còn lại đều có sự hiện diện quân sự của các cường quốc phương Tây. Căn cứ tình hình chính trị rối ren ở Kenya và Somalia, có thể phỏng đoán rằng, khoảng chân không tại một không gian hoàn toàn không bị phân chia dọc theo bờ Tây Ấn Độ Dương sắp tới có thể bị lấp đầy bởi các đạo quân hạn chế của NATO.

Theo các chuyên gia quân sự Mỹ, mục tiêu chính của Obama sẽ là thiết lập sự hiện diện quân sự lâu dài ở Yemen. Chính sách này sẽ đáp ứng hàng hoạt nhiệm vụ mà quan trọng nhất trong số đó sẽ là giành quyền kiểm soát tuyệt đối đối với cảng Aden ở Yemen vốn thường được mệnh danh là “cánh cửa mở sang châu Á”. Kiểm soát được Aden và eo biển Malacca sẽ đặt Mỹ vào vị thế vô song trong “ván cờ lớn” ở Ấn Độ Dương. Bằng cách đặt các tuyến đường biển ở Ấn Độ Dương dưới quyền kiểm soát của mình, Washington sẽ kiềm chế được sự gia tăng sức mạnh kinh tế của Trung Quốc. Bởi vậy, Mỹ chọn chỗ dựa là Ấn Độ, quốc gia đang tìm cách hạn chế các tham vọng của Trung Quốc và bảo vệ lợi ích của họ ở khu vực Ấn Độ Dương.


Trong khi đó, sự hoành hành của hải tặc tại vịnh Aden và Ấn Độ Dương đang trở thành một thứ công cụ để tác động đến an ninh năng lượng của Trung Quốc. Các cuộc tấn công cướp biển nhằm vào các thương thuyền vẫn diễn ra không ngừng và theo một số nguồn tin, những kẻ bị gọi là hải tặc Somalia đang nhận được thông tin từ các hãng bảo hiểm hàng hải Anh, còn tàu bè, thiết bị và vũ khí chúng nhận được từ Mỹ.

Khi một số nước đề nghị tăng cường đấu tranh chống cướp biển thì Mỹ và Anh thường phong tỏa các sáng kiến đó ở Liên Hiệp Quốc vì các lý do “nhân đạo”. Như vậy, những quốc gia chủ yếu và về thực chất là duy nhất chống lại việc thông qua các quy tắc luật pháp quốc tế nhằm chống hải tặc lại là Washington và London. Điều đó khiến người ta nghĩ đến chuyện lãnh đạo Mỹ và Anh muốn sự tồn tại và phát đạt của cướp biển.

Nguồn : http://vietnamdefence.com/

Các bài liên quan




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét